Ảnh chỉ mang tính minh họa
CẦU LÀNG
Bây
giờ vào Nghĩa Lập không ai còn thấy hình ảnh cái Cầu làng nữa. Dân làng cũng ít
dần người nhắc tới từ: “đi lên đầu Cầu”. Nếu còn, chỉ xuất hiện đây đó một vài
cụ cao tuổi thi thoảng nói tới từ đó. Song song với ngôi Cầu làng là chiếc Cổng
làng cũng trong tình trạng như vậy.
Không
ai biết từ bao giờ sự tồn tại của ngôi Cầu, cũng như công lăng của nó gắn với
người dân của làng Nghĩa Lập. Ngôi Cầu này vẫn tồn tại cùng thời gian với bao
thế hệ người dân Nghĩa lập. Trong sự phát triển của kinh tế hiện nay cộng với
việc đô thị hóa ngày càng gia tăng thì một đi chứng tích lịch sử cũng làm lên văn
hóa của ngôi làng cổ. Dù văn minh đến mấy chúng ta cũng không thể phủ nhận những
mảng nối của cha ông đã tạo đà cho chúng ta phát triển ngày nay. từ những lý do
đó mà tôi có ý nghĩ tìm những dấu tích còn sót lại đâu đó ở người dân làng Nghĩa
Lập hôm nay. Quay trở lại chiếc cầu hay ngôi cầu hoặc nhà cầu, bởi ở đây có người
sẽ hiểu lầm là cây cầu bắc qua sông hay qua suối… mà ở đây, tôi muốn nói tới ngôi
cầu làng; có lẽ chỉ người cao tuổi mới hình dung ra còn lớp trẻ gần như không
hay biết.
Cầu
được xây dựng cách làng Nghĩa Lập khoảng 500m về phía Tây Bắc. cầu gồm ba gian
nằm đúng ngã ba hướng chính diện về phía Nam; phía Đông giáp khu ruộng Bành
voi, đông Bắc giáp khu ruộng cây tháp, chính Bắc giáp khu ruộng Đống Bạc, tây
giáp khu ruộng Chuôm chùa, Nam là đường đi. Hai hồi của cầu, một giáp đường đi
từ đình Nghĩa Lập sang Phù Khê, một giáp đường đi nhỏ hơn từ đình Nghĩa Lập
sang Cổ Trâu. Nhà cầu được làm theo kiểu nhà ngói ba gian (nhà cấp 4). Đây là
kiểu nhà phổ biến của người dân đồng bằng Bắc Bộ ở thời điểm đó. Vật liệu chủ
yếu bằng gỗ, tre làm khung nhà, gạch để xây và lát nền, mái nhà được lợp bằng
ngói ta. Đây cũng là những vật liệu thường được sử dụng vào việc xây nhà và các
công trình trong trong xây dựng nhà của đa số người dân thời bấy giờ. hai bên
hồi xây bịt bằng gạch thông qua liên kết của vữa, vữa là vật liệu cấu thành từ
cát sông được đánh đều với vôi. Hướng Bắc bỏ trống cột làm chỗ dựa của hai vì
làm bằng gỗ, có nơi làm bằng đá. Hướng Nam xây bịt như hai hồi.
Cây
Đề mọc sau nhà cầu không biết có từ bao giờ, hay ai trồng. Khi tôi hỏi các cụ
cao tuổi trong làng mọi người đều không biết, chỉ biết lớn lên đã có cái cầu và
cây đề cổ thụ rồi. Cây đa ở phía trước cũng vậy, nhưng một số suy đoán cây đa
trồng sau cây đề lên thân nhỏ hơn cây đề. Nhưng đây mới chỉ là giả thuyết chứ
theo nhiều người thì cây đa cằn cỗi hơn cây để, có ý cho rằng: “biết đâu do vị
trí xa ngôi cầu dưỡng khí ít, lại mọc đúng vào trỗ đất sấu thì sao?” thật ra
những thứ trên hiện trường không còn, chỉ nghe kể thì ta chỉ cần biết có cây đề
to ở phía sau, cây đa nhỏ hơn ở đằng trước là đủ.
Minh họa: Nguyễn Thạc Điền
Ngôi
cầu này công năng sử dụng của người dân chủ yếu là để tránh mưa và tránh nắng.
Vị trí của cầu không quá xa làng nhưng lại nằm trên đường đi nên nó rất tiện
cho nhân dân và khách bộ hành gặp lúc trời mưa. Nhất là bà con làm đồng giữa
cái nắng như đổ lửa của trời tháng sáu thì đấy lại là nới hữu hiệu để bà con
giải lao và như tránh nắng. Ta còn thấy những bác thợ cầy ra đồng từ lúc còn tờ
mờ sáng còn chưa kịp ăn. Đến thủng buổi người nhà sách cơm, sách nước ra thì ý
ới gọi nhau giải lao để ăn sáng tại cầu này.
Không
những thế mà đây còn là nơi để thi thể người gặp rủi ro ngoài làng. Đó là các trường hợp: chết do bệnh tật người
nhà đưa đi viện về không kịp hay chết tại viện; chết do tai nạn giao thông; chết
đuối ở ngoài làng; chết do bị đâm chém… cơ bản là những người không may qua đời
ở ngoài làng. Không biết tập tục này có từ bao giờ, nhưng chỉ nghe thấy người
nọ truyền người kia là: mang người chết vào làng là mang vận đen và chết chóc
cho cả làng, dần dà thành tập quán. Theo tôi được biết thì một số làng bên cạnh
cũng vậy. Thế là cái cầu lại là nơi để làm ma cho những người bạc phận kể trên.
Người dân có ý tưởng khởi dựng cái Cầu chắc cũng tính công năng này trong hạng
mục công trình. Bởi vì, khoảng cách giữa Cầu và bãi Cả của làng khá gần nhau.
Mọi
người rất ngại đi qua đây vào ban đêm nếu có việc đi qua thường là rủ nhau đông
người mới dám đi. Cũng từ câu: “Thần cây đa, ma cây gạo cú cáo cây đề” lại gần
bãi tham ma, cảnh về đêm càng thêm u tịch và lạnh lẽo. Trước đây tôi thường
được thầy tôi kể: khi còn thanh niên đi hát tuồng về qua gặp phải đêm không có
trăng nghe thấy lá đề bị gió thối va vào nhau phần phật tạo thành âm thanh lạnh
cả gáy, thỉnh thoảng lại có con cú rình chuột thấy động dật mình kêu cú u cú…
lại càng sợ. Thày tôi còn nói: “Những cái đấy không sợ bằng bị cướp, bởi Cầu
thường là nơi trú ngụ của bọn cướp. Đây là đoạn đường chính đi vào trong làng.
Nhiều khi thày tôi phải đi vòng xuống ruộng để tránh không gần cầu”.
Mọi thứ trên đời không có gì là trường tồn và
vĩnh cửu, cái cầu làng Nghĩa Lập cũng vậy. Nó hoàn thành sứ mệnh của mình vào
thập kỉ 60 của thế kỉ trước. Ba gian cầu được dân làng bán cho nhà cụ Biểu
Nhượng. Nhà cụ Biểu ở cạnh nhà tôi.
Ngày
nay cái cầu không còn nhưng nó là văn hóa đặc trưng một thời của làng quê Bắc
Bộ nói chung và người dân làng Nghĩa Lập nói riêng. Nó là gạch lối của thì quá
khứ với thì hiện tại. Tuy bản chất của cái cầu nguyên thủy không còn nhưng đây
đó một số làng đã khởi dựng bằng vật liệu của thời hiện đại, về chức năng sử
dụng cũng không khác xưa là bao. Cầu làng Nghĩa Lập đã chứng khiến biết bao
thăng trầm của lịch sử. Nó cũng thấy
được sự chuyển mình của làng Nghĩa Lập từ tập quyền phong kiến trở thành một
làng XHCN, đánh đuổi cường hào dành quyền lợi về cho người nông dân.
4/12/2012
Phó Mộc